Khi uống thuốc, bạn sẽ thấy những dấu hiệu bệnh dịu lại và biến mất. Nhưng bạn có biết những viên dược liệu quý ấy đã được bào chế như thế nào không?
Tầm quan trọng của thuốc trong cuộc sống hàng ngày
Từ xưa đến nay, thuốc luôn là một trong những vật dụng đồng hành cùng sức khỏe con người. Nhờ việc sáng chế ra những viên thuốc nên bạn mới có thể chống đỡ lại bệnh tật.
Sự thay đổi của thời tiết, môi trường, cuộc sống, rồi khi chúng ta gặp những biến cố như tai nạn giao thông, tai nạn thông thường trong công việc, hay đơn giản hơn là khi bạn già đi, chẳng còn sung sức như thời thanh xuân nữa và mắc nhiều bệnh mãn tính như ung thư, tiểu đường…
Tất cả những trường hợp luôn có thể xảy ra ấy đều cần đến thuốc.
Với riêng những loại thuốc phổ biến, chúng càng đóng vai trò quan trọng hơn trong gia đình của bạn. Khi bạn bị ho, lên cơn sốt, đau bụng, tiêu chảy… bạn sẽ chẳng thể tập trung để làm bất cứ việc gì. Lúc này, những viên thuốc giảm đau, kháng sinh sẽ đánh bay cảm giác khó chịu một cách nhanh chóng.
Thuốc quan trọng là vậy nhưng liệu bạn có biết những thông tin thú vị xoay quanh lịch sử của một số loại thuốc mình đang sử dụng hàng ngày?
Thuốc kháng sinh
Đây là loại thuốc có công dụng rất rộng rãi, được ứng dụng nhiều nhất trong y học lâm sàng, chủ yếu để ngăn ngừa và điều trị các bệnh do vi khuẩn gây ra.
Loại thuốc kháng sinh được phát hiện sớm nhất trong lịch sử chính là penicilin, cách đây hơn 60 năm.
Vào năm 1940, các bác sĩ đã sử dụng penicillin để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn streptomyces aureofaciens, nhiễm trùng huyết và viêm phổi… Kết quả thu được ngoài sức tưởng tượng đã khiến chính các bác sĩ cũng vô cùng kinh ngạc.
Thực tế thì từ rất lâu trước đó, con người đã biết dùng nấm mốc trên đậu phụ để đắp chữa các vết thương nhỏ. Vào nhiều thế kỷ trước tại châu Âu, châu Mỹ, người ta đã biết dùng bánh mỳ, ngô, giày da cũ… để lên mốc nhằm điều trị các vết lở loét, lên mủ trên da. Chất làm mốc, lên men đó chính là kháng sinh mà loài người khi ấy đã không nhận ra.
Thuốc hạ sốt
Khi đại đế Alexander lên cơn sốt đầy bí ẩn vào năm 323 TCN, các bác sĩ người Babylon đã tiến hành chăm sóc theo một quy trình đặc biệt: Cho vị vua này sống trong phòng tắm mát như một cách điều trị bệnh này.
Trước khi sáng chế ra thuốc hạ sốt, chắc chắn nhiều người đã sử dụng các biện pháp làm mát bên ngoài tương tự để giảm sốt.
Lần theo dấu vết ghi chép lịch sử trên bia đá có từ thời Sumer, người ta còn thấy rằng, người xưa sử dụng lá liễu để điều trị thấp khớp, hạ sốt và giảm đau khi sinh nở. Theo đó, lá liễu có chất làm mát, sẽ đánh bay cơn nóng sốt, đau nhức trong cơ thể bạn.
Năm 1878, Harmon Northrop Morse tổng hợp được paracetamol từ con đường giáng hóa p-nitrophenol cùng với thiếc trong giấm đóng băng. Tuy nhiên, paracetamol không được dùng làm thuốc điều trị trong suốt 15 năm sau đó. Năm 1946, Viện nghiên cứu về giảm đau và thuốc giảm đau của Mỹ đã tài trợ cho Sở y tế New York để nghiên cứu tiếp.
Năm 1948, Brodie và Axelrod liên kết việc sử dụng acetanilide với met-hemoglobin và xác định tác dụng giảm đau của acetanilide là do paracetamol - chất chuyển hóa của nó gây ra.
Họ chủ trương sử dụng paracetamol trong điều trị và từ đó đã không xuất hiện các độc tính như của acetanilide nữa. Sản phẩm paracetamol lần đầu được McNeil Laboratories bán ra năm 1955 như một thuốc giảm đau hạ sốt cho trẻ em với tên Tylenol Children's Elixir.
Từ đó trở đi, paracetamol trở thành thuốc giảm đau hạ sốt được sử dụng rộng rãi nhất với rất nhiều tên biệt dược được lưu hành.
Thuốc tiêu hóa
Thuốc tiêu hóa được phát hiện thông qua những chiếc bánh có khả năng tiêu hóa tinh bột trong cơ thể. Đó là những chiếc bánh quy, được sản xuất đầu tiên tại Anh.
Vào năm 1839, hai bác sĩ người Scotland đã sử dụng bánh quy để hỗ trợ tiêu hóa. Họ cho rằng bánh quy có khả năng kháng axit, từ đó giúp tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
Năm 1889, John Montgomerie, người Scotland đã đệ đơn xin sáng chế thuốc tiêu hóa từ bánh quy, nhằm hỗ trợ tiêu hóa cho những người có hệ tiêu hóa kém.
Thuốc đi ngoài
Từ rất lâu đời, con người đã biết sử dụng lá ổi, lá vối, nụ hoa sim nhai mỗi khi bị tiêu chảy. Bệnh tiêu chảy bắt đầu nở rộ khi có sự giao lưu du lịch giữa các nước. Nhóm đối tượng chủ yếu mắc bệnh là trẻ em.
Khu vực dễ bị bệnh tiêu chảy nhất trong lịch sử xa xưa chính là Nam Phi. Về sau này, các nhà khoa học đã sáng chế ra dung dịch oresol như một giải pháp hữu hiệu chữa bệnh tiêu chảy nhờ đặc tính bù nước, chất điện giải.
Mặc dù thuốc đem lại rất nhiều tác dụng nhưng nói chung, chúng ta không nên lạm dụng kháng sinh vì có thể gây nên hiện tượng nhờn thuốc, làm xuất hiện những loại siêu vi khuẩn kháng thuốc.
Ngoài ra, việc sử dụng thuốc kết hợp với một số thực phẩm, dược phẩm có thể tạo nên những hiệu quả không mong muốn hoặc mất đi tác dụng của thuốc.