Có một thực tế đáng buồn là các chuyên gia, nhà nghiên cứu, thậm chí những người trong ngành y cũng đã nhiều lần đề cập đến việc người Việt Nam sống trên cả rừng cây thuốc, vị thuốc vô cùng quý giá nhưng chưa tận dụng hết tiềm năng. Trong khi đó, nhiều nguyên liệu dược liệu của nước ta chủ yếu vẫn phải nhập từ nước ngoài trong khi chất lượng khó kiểm soát.
Ưu thế chưa vượt trội
Từ xưa đến nay, y học cổ truyền (YHCT) được khẳng định điều trị có hiệu quả nhiều nhóm bệnh nguy hiểm và phức tạp như: phong tê thấp, tiêu hóa, tiết niệu, hư nhược cơ thể, hô hấp, phụ khoa, nhi khoa và một số bệnh mạn tính và không gây tác dụng phụ; trong đó có các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc (chiếm tới 30%), điển hình là châm cứu, xoa bóp, dưỡng sinh…
Với tỷ lệ bệnh nhân khỏi bệnh đạt hơn 70%, các phòng chẩn trị YHCT ngày càng thu hút nhiều người đến khám và điều trị. Tại Viện YHCT TPHCM mỗi ngày khám và điều trị cho 500 - 600 bệnh nhân, điều này khẳng định YHCT đã và đang có vai trò hết sức quan trọng trong việc giảm tải cho các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa.
Theo TS-BS Trương Thị Ngọc Lan, Phó Viện trưởng Viện Y học dân tộc, để có được bài thuốc chữa bệnh hiệu quả, nhiều lương y đã cống hiến cả đời mình nghiên cứu, sưu tầm, tìm hiểu về những cây thuốc. Những bài thuốc đông y giá trị chữa ban sởi, viêm xoang, bệnh về gan, giải độc rắn cắn, bệnh lỵ, thống kinh, trĩ... của lương y lớp trước được nhiều người biết đến và đang được lớp hậu duệ học hỏi, tiếp tục phát huy. Tại đây, nhiều bài thuốc, phương pháp chữa bệnh đã được nghiên cứu sâu hơn, áp dụng thành công.
Với lợi thế có lịch sử lâu đời, có hệ thống khám chữa bệnh YHCT khá dày đặc nhưng đến nay, chính sách đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh YHCT vẫn chưa xứng tầm. Hầu hết cơ sở khám chữa bệnh YHCT vẫn chưa có sự đầu tư của nhà nước về cơ sở vật chất, trang thiết bị… khiến người dân chưa có niềm tin vào YHCT.
Bên cạnh đó, một vấn đề nữa là còn khan hiếm về nguồn cung cấp dược liệu chất lượng cao; trong khi Việt Nam được ưu đãi về thiên nhiên, điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, khí hậu với hơn 5.000 loài thực vật dùng trong phòng bệnh và chữa bệnh.
Vậy nhưng, số vùng chuyên canh cây dược liệu ở nước ta vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay với sản lượng rất khiêm tốn. Chỉ một vài địa phương quan tâm quy hoạch và triển khai nuôi trồng một số cây, con dược liệu có hiệu quả chữa bệnh và giá trị kinh tế như: diệp hạ châu, đinh lăng, ích mẫu, kim tiền thảo, sa nhân tím, sâm ngọc linh, trinh nữ hoàng cung…
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tại các quốc gia đang phát triển, việc chăm sóc sức khỏe của khoảng 80% dân số ít nhiều có liên quan đến YHCT hoặc thuốc từ dược thảo truyền thống để bảo vệ sức khỏe. Tại Việt Nam, nhu cầu dược liệu trong nước cần khoảng 60.000 tấn/năm, trong khi chỉ cung cấp được khoảng 15.600 tấn/năm, phần còn lại phải nhập khẩu từ Trung Quốc, lãnh thổ Đài Loan, Singapore…
Đặc biệt, nhiều dược liệu của Việt Nam được Trung Quốc sang thu mua nguyên liệu với giá rẻ, đưa về nước chế biến, bào chế; sau đó bán ngược sang Việt Nam với giá vô cùng đắt đỏ. Tại tỉnh Đồng Tháp, tâm sen được thương lái Trung Quốc thu mua với giá 200.000 đồng/kg.
Sau đó, Trung Quốc xuất ngược sang Việt Nam dưới dạng dược liệu mang tên “liên tử tâm” có giá vài triệu đồng/kg; hay như nhãn tươi mua với giá 50.000 đồng/kg, khi bán sang Việt Nam với tên “long nhãn” có giá hơn 200.000 đồng/kg; mủ trôm của Việt Nam chỉ bán trên thị trường 200.000 - 250.000 đồng/kg, sau khi được Trung Quốc thu mua, chế biến và quay trở lại Việt Nam với cái tên “tuyết yến” thì giá đội lên gần 10 triệu đồng/kg…
Biến cái khó thành thế mạnh
Trên nền thế mạnh về nguồn tài nguyên dược liệu, cộng đồng dân tộc Việt Nam đã tích lũy được những kinh nghiệm và truyền thống lâu đời trong việc sử dụng các loại cây, con làm dược liệu, góp phần hình thành nên một kho tàng tri thức khổng lồ mang bản sắc riêng của từng dân tộc, từng vùng miền.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường, ngành y tế đã tổng hợp được danh mục loài cây thuốc từ cộng đồng các dân tộc và thu thập, sưu tầm gần 1.300 bài thuốc dân gian trên cả nước. Những tri thức bản địa này là cơ sở quan trọng nhằm hỗ trợ cho việc sàng lọc, nghiên cứu phát triển sản phẩm phục vụ công tác phòng và chữa bệnh. Tuy nhiên, trước thực trạng nền YHCT còn “lu mờ” thì hướng đi phù hợp nhất của ngành dược nước ta chính là dựa vào lợi thế sẵn có là nguồn cây dược liệu trong nước để phát triển. Đây sẽ là con đường nhanh chóng và thuận lợi nhất để đưa ngành dược Việt Nam đón đầu trong hội nhập quốc tế.
Theo ông Trương Quốc Cường, thị trường tiêu thụ dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu còn rất lớn vì không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, với xu hướng “trở về thiên nhiên” thì việc sử dụng các loại thuốc từ dược liệu của người dân ngày càng tăng so với việc sử dụng tân dược vì ít xảy ra những tác động có hại và phù hợp với quy luật sinh lý của cơ thể hơn.
Bên cạnh đó, trên thế giới đang có xu hướng định hình lại phương pháp nghiên cứu tìm ra các loại thuốc mới, đó là thay vì chỉ chú trọng đến việc tổng hợp hóa học trong phòng thí nghiệm với nhiều khó khăn và độc tính, các nhà khoa học về y dược, tập đoàn dược phẩm lớn hiện đang nghiên cứu, sàng lọc từ thiên nhiên để tìm ra các hoạt chất sinh học mới có dược tính mạnh hơn, ít độc hơn.
“Với kho tàng nguồn gen phong phú và cách sử dụng thuốc dựa vào kinh nghiệm như nước ta, sẽ rất phù hợp và hỗ trợ mạnh cho quá trình sàng lọc ban đầu này. Việc sử dụng nguồn nguyên liệu từ cây dược liệu để chiết xuất các hoạt chất mới, giúp đem lại khả năng bào chế ra những bài thuốc mới với chi phí nghiên cứu phát triển kinh tế hơn rất nhiều so với việc nghiên cứu bào chế thành công một hóa dược mới. Theo thống kê, để có được một hóa dược mới, cần tiêu tốn chi phí từ 700 triệu USD đến 1,5 tỷ USD”, Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường nhấn mạnh.
Kéo doanh nghiệp vào cuộc
Nếu thị trường có nhu cầu lâu dài về một loại dược liệu nào đó thì phải tổ chức trồng trọt theo vùng chuyên canh để lấy nguyên liệu. Đối với những cây thuốc mới, cần nghiên cứu sử dụng để phục vụ việc chăm sóc sức khỏe cho người dân, tiến tới tạo ra những sản phẩm thuốc đặc trưng, mang lại nguồn lợi kinh tế cho địa phương. Đặc biệt, với các bài thuốc gia truyền bản địa của đồng bào dân tộc, phải tiến hành điều tra, khảo sát và tư liệu hóa, ghi chép lại nguồn tri thức y học gia truyền bản địa này để nhằm gìn giữ, bảo tồn và phát triển.
Theo PGS-TS Trần Văn Ơn, để phát huy giá trị bền vững nguồn dược liệu của Việt Nam, ngoài việc xây dựng các vùng chuyên canh cây dược liệu như ở Sa Pa (Lào Cai), Quản Bạ (Hà Giang) thì cần xây dựng và phát triển các hệ thống sản xuất và phân phối dược liệu. Từng bước cung ứng dược liệu được sản xuất theo các quy chuẩn của GACP-WHO, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; trước mắt là cho bảo hiểm y tế tại các bệnh viện công lập bằng cách tổ chức theo chuỗi, khởi đầu từ cộng đồng với sự tham gia của một số doanh nghiệp chủ chốt.
Do việc trồng trọt các cây dược liệu cần có thời gian nên phải xây dựng lộ trình chuẩn hóa các tiêu chuẩn áp dụng GACP-WHO thích hợp nhằm bảo đảm nguồn cung đạt tiêu chuẩn. Xây dựng chương trình nghiên cứu và triển khai cơ giới hóa trong trồng trọt, thu hái và sơ chế dược liệu, bao gồm: làm đất, chăm sóc, thu hái, làm khô. Điều này rất cần thiết bởi đó là yếu tố quyết định đến năng suất lao động, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của dược liệu Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Thống kê của Cục Quản lý y - dược cổ truyền, năm 2017, tỷ lệ lượt khám bệnh bằng YHCT hoặc kết hợp YHCT và y học hiện đại trên tổng số lượt khám chữa bệnh chung của cả nước chỉ đạt 4,1% ở tuyến trung ương, 11,7% ở tuyến tỉnh, 13,4% ở tuyến huyện và 28,5% ở tuyến xã.
Nguồn: sggp.org.vn